Giờ học của thầy luôn luôn thú vị, nhất là thầy kể các giai thoại
văn chương, những bài thơ văn khẩu khí, tài ứng đối như “Ai công
hầu, ai khanh tướng... Thế Xuân Thu, thế Chiến Quốc”, về Cao Bá
Quát với sự ngạo mạn “Câu thơ Thi Xã, con thuyền Nghệ An” và cái
mộng đồ vương để rồi “Một chiếc cùm lim chân có đế, Ba vòng xích
sắt bước thì vương!” Thầy dạy chúng tôi biết yêu truyện Kiều để hiểu
ưu tư của Nguyễn Du “Bất tri tam bách dư niên hậu - Thiên hạ hà
nhân khấp Tố Như”, những chữ Hán đầu tiên tôi học lý thú, say mê
từ Thầy để cảm được các câu văn đối ý nhị như:
Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.
Tạm dịch nghĩa không đối:
Mưa gió tuy không có khóa xích nhưng vẫn cầm chân được người,
Sắc đẹp dù chẳng có phong ba mà dễ nhận chìm người.
Hay trữ tình như:
Giang thâm chung hữu để
Tương tư vô biên ngạn!
Sông sâu còn có đáy,
Nhưng nỗi nhớ nhung là vô bến bờ.
Hoặc để hiểu được cái hay, thú vị của câu đối rất bay bướm:
“Hài thêu Phượng, hài hành Phượng vũ
Phiến họa Long, phiến động Long phi.”
Tạm dịch nghĩa:
Đôi hài có thêu hình chim Phượng Hoàng khi bước đi như chim
Phượng đang múa.
Quạt có vẻ trang trí hình Rồng, khi vẩy quạt tựa như Rồng đang
bay.
Thầy dạy tôi Việt Văn tiếp hai lớp 8 và 9, tôi hiểu biết và cảm nhận
được giá trị của các bài thơ Đường luật qua các lớp học của thầy, từ
thơ của Bà Huyện Thanh Quan, nhẹ nhàng , lắng đọng: “Gác mái
ngư ông về viễn phố - Gõ sừng mục tử lại cô thôn” cho đến Hồ Xuân
Hương ví von: “Một đèo, một đèo lại một đèo, khen ai khéo vẻ cành
cheo leo” hay “Tang bồng hồ thỉ Nam nhi trái” của Nguyễn Công Trứ,